18 tháng 2, 2013

23/2/1979: NGUYỄN THÁI SƠN, PHÙNG KHẮC BẮC THOÁT CHẾT Ở LẠNG SƠN


Khoảng giữa năm 1976, Phùng Khắc Bắc từ Quân đoàn Bốn; Trần Đăng Khoa từ Hải quân; Trần Nhương từ Tổng cục Hậu cần; Đình Kính, Khuất Quang Thụy từ Tây Nguyên; Chu Lai từ Đặc công Miền; Nguyễn Trọng Tạo từ Quân khu Bốn, Đào Thắng, Nguyễn Khắc Trường - Quân chủng Phòng không, tôi từ Quân đoàn Một, cùng với nhiều tác giả khác như Lê Lựu, Phạm Đình Trọng, Xuân Đức… từ khắp các mặt trận cùng được tập trung về Trại Viết văn Quân đội ở Hà Nội. “Trại” Hà Nội có lán trại ngay sát mép sông Tô Lịch nên có tên là “Trại Viết Tô Lịch”, tồn tại đồng thời với “Trại Sông Hàn” ở Đà Nẵng với những nhà văn khu vực Trung bộ: Bùi Minh Quốc, Nguyễn Trí Huân, Lưu Trùng Dương, Phan Tứ, Ngân Vịnh, Thái Bá Lợi…Trại Hà Nội do hai Nhà văn Hồ Phương, Xuân Thiều phụ trách. Trại viết ở Đà Nẵng do Nhà văn Nguyễn Chí Trung làm “Trưởng trại”.
Mục đích của hai “trại” này là tập trung các cây viết đã có tác phẩm ít nhiều được chú ý để chuẩn bị cho một khóa đào tạo cơ bản - cụ thể, sẽ gửi vào một trường đại học viết văn có tên Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Nam Cao… mà vào thời điểm đó vẫn chưa được xác định (sau này chính là Trường Đại học Viết văn Nguyễn Du).
Tập trung chán chê mà trường lớp vẫn chưa mở, các tác giả chia nhau đi thực tế ở khắp nơi. Nguyễn Khắc Trường (còn mang bút danh Thao Trường), Nguyễn Hoa và tôi đến Đoàn Ba Xây dựng Kinh tế ở Tây Nguyên để thâm nhập thực tế nhằm phản ánh “thành tích phá rừng hoang đại ngàn nguyên thủy để trồng lúa trồng sắn” nhằm tự túc lương thực (!?). 
Cuối năm 1976, toàn bộ “trại viên” đi thực tế Đà Lạt về, lán trại bên sông Tô Lịch đã bị giải tỏa nên chuyển đến ở nhờ nhà dân ở Khương Thượng, tiếp tục chờ… học. Tại đây, lễ cưới của Phùng Khắc Bắc được tổ chức. Tôi được phân công chụp ảnh đám cưới, máy ảnh ai đưa không nhớ nhưng cuộn phim thì xin được của tuyên huấn bên Tổng cục Hậu cần, do Nhà văn Trần Nhương đưa. Dạo ấy phim, giấy ảnh cực hiếm, trong quân đội đặc biệt lắm mới được dùng phim Orwo của Đức, còn phổ biến là dùng phim Xmena của Liên Xô. Cục Tuyên huấn cắt những cuộn phim lớn (dùng để quay phim 35mm) thành các cuộn phim nhỏ 36 kiểu phát cho…toàn quân. Loại phim này người ta sản xuất để quay phim, lại đã quá thời hạn sử dụng, chụp bằng máy ảnh hai cuộn thường được một, 36 kiểu được chục kiểu là may. Cuộn phim đám cưới của Phùng Khắc Bắc chỉ được dăm bảy kiểu lờ mờ, còn lại đều bị rỗ mốc. Đau xót quá!
“Trường viết văn chưa biết có mở hay không, nếu có mở thì cũng không biết đến bao giờ”, tiếp theo thông tin ấy là gợi ý của “Trại trưởng, Trại phó” Hồ Phương, Xuân Thiều “hoặc là ở lại trại tiếp tục chờ, hoặc tạm trở về đơn vị cũ, cũng có thể vào học ở các trường đại học khác (Tổng cục Chính trị sẽ làm mọi thủ tục). Phùng Khắc Bắc và tôi quyết định “tranh thủ” học khóa Đại học Văn hóa Quần chúng (Hệ Quân đội, học “nhờ” trong Trường sĩ quan Chính trị ở Thành cổ Bắc Ninh, mở song hành với “hệ dân sự” bên khuôn viên Đại học Văn hóa ở đê La Thành của Bộ Văn hóa, cùng chương trình, giáo trình, giảng viên nhưng Hệ Quân đội được miễn học ba môn Triết học, Kinh tế Chính tri, Chủ nghĩa Mác vì trước đó đã học kỹ trong mấy năm ở các học viện, trường sĩ quan. Phùng Khắc Bắc và tôi đều là Trung úy, thuộc quân số do Tổng cục Chính trị “gửi”, là hai sinh viên có quân hàm "cao" nhất nên phải chia ra học ở hai lớp - Bắc ở lớp Sân khấu, tôi ở lớp Âm nhạc.
Lớp Bắc đang tập các tiểu phẩm sân khấu, lớp tôi dàn dựng những ca khúc tự sáng tác (dưới sự hướng dẫn của các Nhạc sĩ Huy Du, Lương Ngọc Trác và mấy người nữa ở Đoàn Văn công Quân đội) để chuẩn bị cho Lễ Tốt nghiệp thì nhận được lệnh từ Tổng cục Chính trị: đi thực tế ở Quân khu Việt Bắc một tuần lễ trước khi tốt nghiệp. Ngay sau Tết Kỷ Mùi, chân ướt chân ráo đến Lạng Sơn, Phùng Khắc Bắc và tôi về hai tiểu đoàn khác nhau. Sau một tuần lễ “thâm nhập thực tế”, mọi người đang chuẩn bị về lại trường thì chiến tranh Biên giới phía Bắc nổ ra, “buộc chân” hơn trăm sinh viên ở lại biên giới phía Bắc. 



Gần hai chục sinh viên thương vong, giáo vụ của Hệ Quân đội - Thiếu tá Mộng Lục - cán bộ Cục Tuyên huấn bị bắn chết trên một quả đồi, khi lính Tầu rút đi mới được tìm thấy, nhờ chiếc bút máy Kim Tinh cũng do Tầu chế tác có khắc tên anh còn bị “bỏ lại” trong túi áo.
Phùng Khắc Bắc cùng đồng đội bị lính Tầu vây chặt 7 ngày ở bản Sa.

Tôi (trước khi đi Lạng Sơn, đã có quyết định về làm Trị sự Tạp chí Văn nghệ Quân đội thay anh Doãn Trung, một số đồ đạc, trong đó có chiếc radio Xpidola của Liên Xô, đã được mang đến để ở số 4 Lý Nam Đế) bị thương ở bụng mổ đi mổ lại sáu lần, chuyển từ quân y Tiền phương về Bệnh viện Dân sự Lạng Sơn, Quân y viện 9 ở thị xã Bắc Ninh rồi về Quân y viện 105 ở Sơn Tây. Khi các nhà văn Đại Đồng, Đào Thái Tôn, Khuất Quang Thụy và mấy người nữa (tôi không còn nhớ, thật tệ) lên Quân y viện 105 thăm, đến cổng nghe ai đó nói “NTS hả, chết rồi”, đã định mua vòng hoa tang. Trong thời gian ở Viện 105 trước khi về Viện 108 ở Hà Nội, tôi còn được Nhà văn Khuất Quang Thụy đến thăm hai lần nữa. 

Phùng Khắc Bắc, Trần Nhương, Trần Đăng Khoa… cùng lỡ Khoá I, tiếp tục học Khóa II Trường Viết văn Nguyễn Du. Tôi bỏ học, về lại Cục Tuyên huấn (Trị sự Tạp chí VNQĐ đã có người khác, cùng học với tôi ở Đại học Văn hoá, hình như là anh Mai Hiên thì phải).


Mỗi lần gặp tôi, Chu Lai vẫn đọc câu thơ của chính mình: “Thái Sơn một khúc ruột lòi/ Hồn ma Khắc Bắc cọc còi Bản Sa”. Phùng Khắc Bắc đã được giải thoát sau 7 ngày bị lính Tầu vây hãm, sống thêm 12 năm nữa, kịp để lại tập thơ Một Chấm Xanh.


























Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Đăng nhận xét của bạn