27 tháng 1, 2013

THĂM MỘ CHIỀU CUỐI NĂM - 4 Bài Viết...


PHẠM KHẢI
(Chọn và Bình, nhân đọc bài thơ “Thăm Mộ chiều cuối năm” của Nhà thơ Nguyễn Thái Sơn)
Một nén tâm hương thành kính...


Vạt đồi yên nghỉ bao đồng đội
Nhang trầm một thẻ - biết làm sao...
Thắp lên, đành cắm nơi đầu gió
Hương khói
                  đừng quên nấm mộ nào!
"Đời đời ghi nhớ công ơn các Anh hùng Liệt sĩ đã hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc" - đó là dòng khẩu hiệu ta thường thấy ở bất kỳ một khu nghĩa trang liệt sĩ nào.
Tôi đã đọc bài thơ "Viếng chồng" của nhà thơ Trần Ninh Hồ. Phải nói, "Thăm mộ chiều cuối năm" của Nguyễn Thái Sơn có một điểm sáng nhân văn rất gần bài thơ này. Người đàn bà từ nơi xa xôi lặn lội tìm viếng mộ chồng. Khu rừng chỉ có hai ngôi mộ: mộ anh và mộ người đồng đội. Và chị đã đặt bó hoa đó lên mộ người không phải ruột thịt, với một lý do thật cao cả: "Viếng mộ anh có chị đến đây rồi".Đó là một trong muôn vàn nghĩa cử góp phần làm cho dòng khẩu hiệu trên thêm xác tín.
Bài thơ của Nguyễn Thái Sơn tuy khác hướng ứng xử nhưng cùng xuất phát từ một cách nhìn, cách nghĩ, một nỗi lòng. Ở đây, vấn đề không còn là 1 cộng 1 chia 2 (người, hoa và 2 ngôi mộ) nữa, mà là số một đối lập với số nhiều:
Vạt đồi yên nghỉ bao đồng đội
Nhang trầm một thẻ...
Với một thẻ nhang, làm sao không để tủi phận những người nằm dưới cỏ. Họ đã từng gắn bó với nhau, chung nhau cái sống, giống nhau cái chết. Thắp cho ai thì cũng chẳng đành, chi bằng (chao ôi, người ta vẫn nói che gió thắp đèn, đằng này...) - đành cắm nơi đầu gió, qua đó mà nhờ ngọn gió đưa hương khói chia xa khắp vạt đồi, đến với từng ngôi mộ, làm ấm hồn người khuất và nhẹ lòng người sống.
Chỉ một chi tiết này cũng đủ cho ta thấy tổn thất mà dân tộc mình phải gánh chịu trong mấy cuộc chiến tranh vừa rồi nặng nề đến mức nào, và vết thương ấy đến bao giờ mới gắn hàn cho xuể. Khói hương, khói hương mỏng mảnh, "đi" hết được vạt đồi họa có biến thành khói bom!
Nhưng... nơi mà hương khói chưa qua, lòng người đã đến. Thơ viết về bia mộ thường gợi cảm giác hoang lạnh, nhưng đọc bài thơ, ta còn có thêm cảm giác ấm áp, bởi, nó đã làm bừng lên trong mỗi chúng ta những nén tâm hương thành kính...
______________

TRẦN TRUNG
(Giảng viên Trường Đại học Sư phạm Hà Nội)

Một nén Tâm Nhang
(…) Thăm mộ người thân - một ngày cuối năm, vốn là một lệ thường với những người đang sống. Bởi, có lẽ sau một năm với bao lo toan việc đời, người ta muốn tìm đến sự tĩnh tâm, thanh tịnh và an ủi trong sự giao lưu với những người đã ở cõi vĩnh hằng.
“Thăm mộ chiều cuối năm (*) là một khúc tâm tình thơ mà Nguyễn Thái Sơn muốn gửi gắm cho đồng đội - những người đã "yên nghỉ" và cả cho những người đang sống. Thăm mộ - chiều - cuối năm; công việc ấy (thăm mộ) thời gian ấy (chiều) và thời điểm ấy (cuối năm) ngỡ như dễ dàng tạo nên niềm cảm thông, giao hòa giữa hai cõi Âm Dương đi về. Thế mà...
Một tình huống khó xử:
Có một người lính đã lặng lẽ đến đây - vạt đồi này, để lặng lẽ thăm lại “bao đồng đội" đã "yên nghỉ” nơi đây. Tình thì quý nhưng “biết làm sao” khi trên tay chỉ có “nhang trầm một thẻ” ? Một tình huống trớ trêu. Một tình huống khó xử. Cái vị trí được xác định (vạt đồi) lại không thể thỏa mãn cho sự lý giải trước một số lượng không xác định (bao đồng đội). Lại nữa, sự thành kính muốn gửi trong “nhang trầm một thẻ” chỉ là cái hữu hạn đặt trước cái vô biên...
Vì thế, những tiếng “biết làm sao" đặt ở cuối câu thơ thứ hai sao và băn khoăn, day dứt đến thế. Nỗi băn khoăn, day dứt bởi sự đáp đền trước nợ tình đồng đội. Một nhà thơ khác - Lâm Thị Mỹ Dạ trong “Bài thơ không năm tháng” cũng từng đau đớn khôn nguôi trước sự mất mát:
“Cái chết  bao đồng đội
Là vết - thương - thời  gian”
Một giải pháp:
Sự mách bảo của lý trí không phải lúc nào cũng sáng suốt. Mà, trong những tình huống éo le, nhiều khi sự mách bảo của trái tim lại tạo nên giải pháp phù hợp, có ý nghĩa mà lại bất ngờ nữa:
“Thắp lên đành cắm nơi đầu gió
Hương khói
đừng quên nấm mộ nào”

Ta nghe như trong lời thơ là lời tự nhủ. Hay cũng chính là lời khấn thầm của người đồng đội còn sống nói với những người đồng đội đã ra đi - trong ráng chiều sắp tắt - giữa nhấp nhô mộ chí và trong hương khói của thẻ nhang trầm đang lan toả...
Một nén tâm nhang:
"Thăm mộ chiều cuối năm” là đối thoại hay độc thoại. Hai yếu tố đó đâu có loại trừ nhau. Có lẽ, còn phải nói tới một tầng nghĩa nữa mà tự thân bài thơ gợi ra. Đó là sự hoá thân. Phải chăng, khi người lính thầm mong “hương khói đừng quên nấm mộ nào" thì, từ chính trong anh đã tự thắp lên một - nén – tâm - nhang để đến với đồng đội trong niềm cảm thương, xa xót.
Một - nén - tâm - nhang thắp lên và hòa trong hương khói giữa một chiều buồn nhớ...

NGUYỄN NGỌC PHÚ
THƠ VÀ LỜI BÌNH TRÊN BÁO LÂM ĐỒNG
Thăm Mộ chiều cuối năm

(…) Nhà thơ Nguyễn Thái Sơn chọn thời điểm thăm mộ đồng đội vào một chiều cuối năm. Thường, buổi chiều là lúc con người lắng lại những nghĩ ngợi, tâm tư man mác buồn. Phút giao thời giữa ngày sang đêm, giữa sáng sang tối, giữa động sang tĩnh. Cái ranh giới mong manh nhập hòa ấy thường gợi cảm, dồn nén những trực cảm. Lại là chiều cuối năm, thời gian càng nén lại, đời người sắp bước sang một tuổi mới. Cuối năm để nhìn lại cả một chuỗi ngày đã sống. Lúc đứng trước nấm mộ bạn bè, đồng đội đã khuất, con người được đối diện với mình, thanh lọc mình. Nhà thơ không nói quả đồi, đỉnh đồi, sườn đồi mà “vạt đồi yên nghỉ bao đồng đội”. “Vạt đồi” một sự chênh chao hẫng hụt, thiếu vắng ngay trong tâm cảm của người đi viếng mộ nghiêng vát trong chiều cuối năm. Những người lính quây quần bên nhau vẫn trong một đội ngũ, nằm kín bức tượng đài bằng đất - chính mảnh đất thiêng liêng của Tổ quốc mà các anh đã ngã xuống để bảo vệ bằng cả máu xương của mình và lại trở về trong lòng đất mẹ trong đó có rất nhiều nấm mộ vô danh. Một tình huống xẩy ra “nhang trầm một thẻ - biết làm sao” một sự lúng túng, xa xót trước cả một vạt nấm mồ đồng đội mà trong tay mình chỉ có một thẻ nhang trầm. Một đối trọng nghiệt ngã của sự thật chiến tranh mất mát, bi thương nằm ngoài sự hình dung của con người. Thời gian như ngưng lại đến nghẹt thở khi chiều sắp muộn, một năm cũ sắp qua với một người sống đối diện với bao đồng đội đã khuất. Câu thơ như nghẹn lại “nhang trầm một thẻ - biết làm sao”. Một tiếng lòng, một tiếng kêu, một lời đồng vọng và bất ngờ một ứng xử thật nhân văn: “Thắp lên đành cắm nơi đầu gió - Hương khói đừng quên nấm mộ nào”. Gió hay hương hồn của địa linh núi sông, khói nhang trầm hay là hơi ấm tâm linh dân tộc đang về với các anh trong giây phút thiêng liêng này. Chúng ta - những người đọc - những người đang đồng hành với tác giả nhẹ nhõm hẳn khi nhập vào làn khói hương trầm thơm ngát mỏng manh bay lên nơi đầu gió, thấm vào từng ngọn cỏ, từng ngôi mộ. Chỉ một chữ “đành” thật ra là tiếng thở dài trong câu thơ “thắp lên đành cắm nơi đầu gió” mà chứa chan bao nghẹn ngào như người có lỗi trước vong linh các anh càng làm cho chúng ta - những người đang sống phải sống tốt đẹp hơn để được cứu rỗi, để mong mỏi các anh được siêu thoát bởi Tổ quốc, nhân dân “không quên nấm mộ nào”.

Bài thơ tứ tuyệt như một câu chuyện nhỏ giàu chất điện ảnh chỉ gợi mà không tả, chỉ độc thoại mà ngân vọng lay thức, chỉ mấy dòng thôi mà nói lên được cả tình cảm dồn nén để chạm tới cái lõi nhân bản: tình đồng đội!



TRƯƠNG HỮU THIÊM
Đến với bài thơ hay

“Hương khói đừng quên nấm mộ nào”
(…)
Bài thơ được làm theo thể “Thất ngôn tứ tuyệt”, nhưng không hoàn toàn theo nguyên tắc luật Đường thông thường, nghĩa là không có “bốn câu ba vần” như vẫn thấy. Ngay từ cái tít 5 chữ giản dị, các tầng ý đã phát lộ: Đi thăm mộ, vào một buổi chiều và là buổi chiều dịp cuối năm...
Theo phong tục người Việt, hàng năm vào khoảng nửa cuối tháng Chạp, các gia đình thường đi tảo mộ. Lần tảo mộ này khác với lần tảo mộ của: “Thanh minh trong tiết tháng ba // Lễ là tảo mộ, hội là đạp thanh”. Không chỉ thắp nhang, mà các gia đình còn mang dụng cụ ra phát cỏ, vun vén, sửa sang mộ phần những người quá cố trong gia tộc nhà mình. Câu tục ngữ “mồ yên mả đẹp” hoặc “cao nấm ấm mồ”, phải chăng bắt nguồn từ một mỹ tục được lưu truyền trong các phả hệ như vậy?
Tuy nhiên, cũng là “thăm mộ chiều cuối năm”, nhưng Nguyễn Thái Sơn không thăm mộ người thân trong gia đình, mà là thăm mộ của những người từng chung chiến hào đánh giặc. Ta không thấy anh lúi húi phát cỏ, dọn cây, đắp đất hay thành kính bày mâm sắp lễ, thay vào đó, ta “nghe” được từ tấm lòng thi nhân những tiếng ngân rất mực con người. Không gian trong bài thơ là một “không gian nghiêng”, những ngôi mộ không phải trong các nghĩa trang được xây dựng bề thế với những tháp chuông cao vút, mà ở nơi “vạt đồi” chênh chao, hoang vắng. Vậy mà, chính nơi hoang vắng, chênh chao này lại là chỗ đoàn tụ của “bao đồng đội”, sau những tháng năm oai hùng đi qua cuộc chiến tranh vệ quốc.
Bất chợt, một “tình huống” xảy ra: Chỉ có một thẻ nhang trong khi mộ thì nhiều. Trong hoàn cảnh ấy, tâm thức “mách” cho lý trí một điều rất đơn giản, nhưng nên thơ và cả nên tình: Thắp nhang lên rồi cắm nơi đầu gió. Đến đây, từ một bài thơ gợi nhiều hơn tả, bất chợt thủ pháp chuyển sang một bài thơ tả nhiều hơn gợi. Như gieo vào lòng ta hình ảnh một người loay hoay bật lửa (vì gió), loay hoay đốt nhang (cũng vì gió) nhưng không cắm cho nấm mộ nào cụ thể, mà là “cắm nơi đầu gió”. Đây chính là chi tiết có khả năng tạo ấn tượng mạnh với độc giả, dành cho phóng sự và hơn thế, là chi tiết của những nghệ thuật tạo hình như kịch, như phim.
“Nhang trầm một thẻ biết làm sao”, không chỉ là một câu thơ mà còn là một câu hỏi tu từ. Trong khó khăn có giải pháp tương ứng, đọc câu: “Thắp lên đành cắm nơi đầu gió”, xin hãy chia sẻ và để tâm nhiều hơn vào động từ“đành”. Chỉ một chữ thôi nhưng là một chữ thể hiện tâm trạng day dứt, chấp nhận, trong hoàn cảnh không thể làm gì khác và nhất là không thể làm gì hơn. Với câu: “Hương khói đừng quên nấm mộ nào!”, ta như đọc được ở đó một “thông điệp” về lẽ công bằng của lòng biết ơn (điều mà không ít trường hợp chúng ta hay lạm dụng với một mỹ từ: Tri ân!). Trong thực tế, ở nhiều nơi người ta chỉ chăm đến thăm những nghĩa trang gần. Hơn nữa, khi thắp nhang, thường những ngôi mộ xa không được nhiều người quan tâm tới. Thành ra cùng một nghĩa trang, trong khi ngôi mộ này nhang dập đi không hết, thì ngôi mộ kia chỉ có mấy chân nhang liêu xiêu qua nắng qua mưa...
Nhân ngày Thương binh liệt sỹ, xin bình tặng bạn đọc Điện Biên Phủ bán nguyệt san thi phẩm “Thăm mộ chiều cuối năm” của nhà thơ Nguyễn Thái Sơn. Theo thiển ý chúng tôi - “Hương khói đừng quên nấm mộ nào!” - việc thắp nhang cho đều, cho đủ chính là nội dung cốt lõi của bài thơ “Thăm mộ chiều cuối năm”. Cảm ơn nhà thơ Nguyễn Thái Sơn. Bài thơ ngắn nhưng tình thì dài, ý thì sâu và khiến lòng ta như chùng xuống, như se lại, buộc phải soi xem có lần nào mình vào nghĩa trang nhưng chỉ thắp nhang cho những ngôi mộ gần? Người ta bảo “dương sao âm vậy”, với người đã khuất và đặc biệt đấy lại là những chiến sỹ hy sinh cho tự do độc lập, thì nơi chín suối họ cảm được hết lòng dạ dương gian. Và bây giờ, trong cảm xúc ấy, hãy “đốt cháy” bài thơ “Thăm mộ chiều cuối năm”, nhưng xin chia ra để “cắm đều” cho tất cả các ngôi mộ...

10:07, 31/07/2012







Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Đăng nhận xét của bạn